Trang chủ Sống khỏeThời sự y tế Tỉnh có tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh cao nhất Việt Nam

Tỉnh có tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh cao nhất Việt Nam

bởi Admin
0 Lượt xem

Mất cân bằng giới tính khi sinh tiếp tục tăng

Trên thực tế, vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam đã tồn tại từ lâu và được phát hiện qua các cuộc điều tra biến động dân số hằng năm, kể từ năm 2007 đến nay.

Theo bà Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó Trưởng ban Thống kê Dân số và Lao động (Tổng cục Thống kê), Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách và giải pháp để kiểm soát tình trạng này. Tuy nhiên, đến nay, tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam vẫn chưa giảm đáng kể, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh chưa được khắc phục.

Tỷ số giới tính khi sinh (Sex Ratio at Birth – SRB) là chỉ số thể hiện số bé trai được sinh ra trên mỗi 100 bé gái trong một khoảng thời gian nhất định (thường tính theo năm).

Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam từ năm 2021 đến nay đều cao hơn mức cân bằng trung bình. Trong 2 năm gần đây, tỷ số này vẫn có xu hướng tăng, theo Tổng cục Thống kê.

Tình trạng mất cân bằng giới tính chủ yếu diễn ra ở các tỉnh thuộc khu vực phía Bắc (từ Quảng Trị trở ra), đặc biệt là các tỉnh ở vùng Đồng bằng sông Hồng. Giai đoạn 2021–2024, vùng Đồng bằng sông Hồng có 10 trên 11 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh lớn hơn 110 (bé trai/100 bé gái). Trong đó, cao nhất cả nước là Bắc Ninh (119,6), Vĩnh Phúc (118,5), Hà Nội (118,1), Hưng Yên (116,7).

Một số tỉnh khác thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc cũng có tỷ số này khá cao, hầu hết đều trên 109 (bé trai/100 bé gái), điển hình trong số đó là: Bắc Giang (116,3), Sơn La (115,0), Lạng Sơn (114,5), Phú Thọ (113,6).

Bà Mai chia sẻ số liệu thống kê tại hội thảo (ảnh N.M).

Ở các tỉnh khu vực phía Nam (từ Thừa Thiên Huế trở vào), tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh gần như không đáng kể. Tỷ số giới tính khi sinh ở các tỉnh khu vực này ở mức bằng hoặc chỉ cao hơn mức cân bằng một chút (tương ứng khoảng từ 105 đến 108 bé trai/100 bé gái).

Như vậy, một trong những giải pháp để cải thiện tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh là nghiên cứu thực hiện các chính sách tập trung nhiều hơn ở khu vực phía Bắc, thay vì đầu tư diện rộng trên khắp cả nước, bà Thanh Mai nói.

Tuổi trung bình khi sinh có xu hướng tăng dần

Bà Thanh Mai cho hay kết quả đăng ký khai sinh cho thấy tổng tỷ suất sinh của Việt Nam trong những năm gần đây (giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2024) khá thấp. Năm 2021 là 1,83 con/phụ nữ, năm 2023 tăng lên là 1,86 con/phụ nữ nhưng đến năm 2024 lại giảm, chỉ còn khoảng 1,84 con/phụ nữ. Con số này thấp hơn đáng kể so với mức sinh thay thế là 2,1 con/phụ nữ.

Trên thực tế, mức sinh của Việt Nam có thể cao hơn và gần tương ứng với kết quả điều tra thống kê mà Cục Thống kê công bố nếu điều chỉnh theo mức độ đầy đủ của việc đăng ký khai sinh. Tuy nhiên, mức sinh 1,8 đến 1,9 con/phụ nữ vẫn là mức sinh thấp và xu hướng này dự báo có thể tiếp tục duy trì trong những năm tiếp theo nếu Việt Nam không sớm ban hành những chính sách khuyến khích sinh phù hợp.

Tuổi trung bình khi sinh con của phụ nữ hiện nay là khoảng 28 đến 29 tuổi và đang có xu hướng tăng dần từ năm 2021 đến nay. Năm 2021, tuổi trung bình khi sinh con của phụ nữ là 28,4 tuổi; đến năm 2024, số liệu này là 28,8 tuổi, tăng 0,4 tuổi sau 3 năm. Đây là một bằng chứng bổ sung để khẳng định rằng phụ nữ Việt Nam đang ngày càng có xu hướng sinh con muộn hơn.

Ông Matt Jackson, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam, cho biết theo báo cáo gần đây của UNFPA, tỷ suất sinh của Việt Nam hiện ở mức 1,91 con/phụ nữ, thấp hơn mức sinh thay thế (2,1 con/phụ nữ).

Đây là xu hướng phổ biến trên toàn cầu, không chỉ tại Đông Nam Á mà còn ở nhiều khu vực phát triển và đang phát triển khác. Trên thực tế, hiện nay khoảng 2/3 dân số thế giới đang sống tại các quốc gia có mức sinh dưới mức thay thế.

“Những con số này cho thấy rằng chúng ta cần đảm bảo rằng các chính sách dân số của Việt Nam thực sự phục vụ lợi ích của người dân và đáp ứng được thực tế thay đổi về cơ cấu dân số”, ông Matt Jackson nói.

Bên cạnh mức sinh thấp, Việt Nam cũng đang bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ rất nhanh. Người từ 60 tuổi trở lên chiếm 11,9% tổng dân số vào năm 2019, và con số này dự kiến sẽ tăng lên hơn 25% vào năm 2050. Theo dự báo, đến năm 2036, Việt Nam sẽ chính thức bước vào giai đoạn “dân số già”, chuyển từ xã hội “già hóa” sang xã hội “già”.

“Sự thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu dân số đòi hỏi chúng ta phải xem xét nghiêm túc đến nhu cầu thực tế của người dân ở từng nhóm tuổi. Đối với người cao tuổi, điều này đồng nghĩa với việc cần mở rộng các dịch vụ chăm sóc dài hạn, y tế thân thiện với người già và bảo vệ an sinh xã hội. Trong khi đó, đối với thế hệ dân số trẻ, cần ưu tiên các chính sách hỗ trợ nhà ở phù hợp, tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và tạo việc làm bền vững”, ông Matt Jackson nói.

Tại hội thảo, các chuyên gia đánh giá Việt Nam vừa đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nỗ lực xây dựng hệ thống dữ liệu toàn diện và lấy con người làm trung tâm, khi chính thức công bố Báo cáo Quốc gia đầu tiên về đăng ký và thống kê hộ tịch giai đoạn 2021 – 2024.

Báo cáo do Cục Thống kê chủ trì thực hiện, dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, với sự hỗ trợ của UNFPA và Tổ chức Y tế Công cộng Toàn cầu, trong khuôn khổ Sáng kiến Dữ liệu cho Sức khỏe của Quỹ Bloomberg Philanthropies.

Đọc bài gốc tại đây.

Bài viết liên quan