William Sidis sinh năm 1898 tại New York, trong một gia đình nhập cư gốc Do Thái. Ông được nuôi dạy như một “dự án khoa học” của cha mẹ. Cha ông, Boris Sidis, là một bác sĩ tâm thần nổi tiếng, từng tốt nghiệp bốn bằng đại học tại Harvard và chuyên nghiên cứu về tâm bệnh học. Mẹ ông cũng là một bác sĩ. Với nền tảng học thuật ưu tú, họ đặt kỳ vọng lớn lao vào đứa con trai duy nhất và nuôi dạy cậu bằng các lý thuyết tâm lý hiện đại thời bấy giờ.
Ngay từ khi còn rất nhỏ, William đã thể hiện năng lực thần đồng. Mới 18 tháng tuổi, cậu đã đọc được tờ New York Times. Năm lên 8 tuổi, William tự học và thành thạo nhiều ngôn ngữ khác nhau từ Latin, Hy Lạp, Nga, Do Thái, Đức, Pháp đến Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia.
Cùng năm đó, cậu đã sáng tạo ra ngôn ngữ riêng có tên Vendergood, với hệ thống ngữ pháp phức tạp, nhiều thì và thậm chí có tới tám trạng thái tình thái.

Ông Boris từng cố gắng đưa con trai vào Harvard khi cậu mới 9 tuổi nhưng bị từ chối. Hai năm sau, vào năm 1909, ở tuổi 11, William trở thành người trẻ nhất từng trúng tuyển Harvard.
Đến năm 1910, William đã giảng dạy tại Câu lạc bộ Toán học Harvard, khiến giới học thuật và truyền thông choáng váng. Năm 1914, William tốt nghiệp loại xuất sắc ở tuổi 16.
Giới truyền thông săn đón cậu như một thần đồng nước Mỹ. Khi được hỏi về kế hoạch tương lai, William chỉ trả lời rằng ông muốn sống một cuộc đời “hoàn hảo”, tức là một cuộc sống yên bình, tránh xa sự chú ý của đám đông. Đằng sau vẻ ngoài thiên tài là một chàng trai chỉ mong được sống như người bình thường, không phải gánh vác giấc mơ của cha mình.
Tuy nhiên, một trí tuệ siêu việt không giúp ông tìm được chỗ đứng trong xã hội. Sau khi tốt nghiệp, William tiếp tục học tại Harvard bậc sau đại học, sau đó giảng dạy tại Đại học Rice ở Texas khi mới 17 tuổi. Nhưng do tuổi đời quá trẻ, ông không được học trò tôn trọng và sớm bị sa thải. William cũng từng theo học trường Luật Harvard và học rất giỏi, nhưng lại rút lui trước khi tốt nghiệp.

Cuộc sống của ông dần đi vào bế tắc. William từng tuyên bố sẽ sống độc thân trọn đời. Dù có tình cảm đơn phương với nữ nhà báo trẻ Martha Foley, ông vẫn sống cô độc đến cuối đời.
Năm 1919, khi tham gia một cuộc tuần hành mừng Ngày Quốc tế Lao động tại Boston, William bị bắt vì liên quan đến bạo động. Ông bị kết án 18 tháng tù vì những quan điểm thiên tả. Tại tòa, ông khẳng định mình là người vô thần, tin vào thuyết tiến hóa và ủng hộ chính thể Xô Viết. Thông tin này nhanh chóng bị báo chí khai thác theo hướng giật gân, biến ông từ “thần đồng Harvard” thành “phần tử cực đoan nguy hiểm”.
Cuối cùng, gia đình lại một lần nữa can thiệp, đưa William ra khỏi tù và dẫn vào cơ sở điều trị tư nhân ở New Hampshire để “cải tạo” tư tưởng. Họ thậm chí đe dọa sẽ gửi ông vào bệnh viện tâm thần nếu ông không từ bỏ quan điểm của mình. William sống trong sợ hãi và tính từng ngày để thoát khỏi vòng kiểm soát đó.
Sau khi được thả tự do, ông cắt đứt với gia đình, sống ẩn dật và làm những công việc lao động tay chân để kiếm sống. Năm 1924, báo chí phát hiện William đang làm công nhân và bắt đầu giễu cợt ông như một thiên tài “bỏ phí chất xám”.
Nhưng thực tế, trong quãng đời ẩn dật, William vẫn âm thầm viết hàng loạt sách dưới nhiều bút danh. Ông nghiên cứu về lịch sử, toán học và vũ trụ học. Trong cuốn The Animate and the Inanimate, ông trình bày lý thuyết rằng vũ trụ đã tồn tại vĩnh viễn và các vì sao là thực thể sống trải qua chu kỳ sáng – tối.
Năm 1944, William kiện tờ The New Yorker vì một bài viết mang tính chế giễu. Thẩm phán Charles Edward Clark thừa nhận bài viết gây “tổn thương tinh thần nghiêm trọng” cho ông, nhưng cũng khẳng định không thể bảo vệ William khỏi sự soi mói của báo chí. Một lần nữa, thiên tài ẩn dật trở thành nạn nhân của truyền thông.
Không lâu sau vụ kiện, William James Sidis qua đời ở tuổi 46 do xuất huyết não. Chính căn bệnh này từng khiến cha ông tử vong. Một thiên tài từng được kỳ vọng sẽ làm thay đổi thế giới đã sống và ra đi trong cô độc. Tất cả những gì ông muốn là một cuộc sống bình yên, nhưng tham vọng của gia đình, ngòi bút của truyền thông và hoàn cảnh chính trị đã khiến ông vĩnh viễn không đạt được ước mơ bình dị ấy.
(Tổng hợp)
Đọc bài gốc tại đây.