Nội dung chính
Súng phòng không đã trở thành nỗi ám ảnh của các phi công chiến đấu kể từ Thế chiến thứ nhất. Trong Thế chiến 2, các loại pháo phòng không đã có sự phát triển nhanh chóng, reo rắc sự kinh hoàng cho các phi công, ví dụ tiêu biểu là pháo phòng không FLAK 36 88mm của Đức.
Trong thời Chiến tranh Lạnh, các thiết kế nổi tiếng của Liên Xô như ZSU-23-4 “Shilka” 23mm và ZU-23, cùng với ZPU-4 14,5mm đã thống trị bầu trời trên chiến trường Triều Tiên, Việt Nam, Vùng Vịnh,…
Đối với các nước phương Tây, thì Bofors 40mm của Thụy Điển và Oerlikon 20mm của Thụy Sĩ được đánh giá là những khẩu pháo phòng không tốt nhất thế kỉ 20.

Bofors 40mm
Từ những năm 1920, khi Hải quân Thụy Điển muốn có một loại súng phòng không mới để thay thế cho khẩu Vickers Pom-Pom đã lỗi thời. Những người đứng đầu Hải quân Thụy Điển đã yêu cầu AB Bofors (được thành lập vào năm 1646 và có trụ sở chính tại Karlskoga, Thụy Điển; hiện là một phần của nhà sản xuất vũ khí Anh BAE Systems), thiết kế mẫu súng phòng không mới, hiện đại hơn. Đơn vị này đã ký hợp đồng vào năm 1928 và đã hoàn thiện sản phẩm đưa vào sản xuất vào năm 1933.

Súng hoạt động theo cơ chế nạp đạn hỗ trợ trọng lực, được nạp thủ công bằng băng đạn 4 viên. Kíp chiến đấu yêu cầu bốn người. Chiều dài nòng súng 2,25 mét; trọng lượng xe chở súng 522 kg; trọng lượng đạn 0,9 kg; tốc độ đầu nòng 850-880 mét/giây; tầm bay tối đa (lý thuyết) là 7.010 mét; tầm bắn hiệu quả tối đa (thực tế) 3.810 mét. Tốc độ bắn lên tới 120 viên/phút (theo chu kỳ/lý thuyết) và 90 vòng/phút (thực tế). Khẩu súng này đã rất thành công, được lực lượng vũ trang của 84 quốc gia sử dụng.
Oerlikon 20mm
Vũ khí này có nguồn gốc từ năm 1918, khi kỹ sư vũ khí người Đức Reinhold Becker nghĩ ra loại đạn 20x80mm bắn bằng cách sử dụng phản lực đánh lửa mồi, trong một khẩu súng máy rất lớn để bắn 300 viên mỗi phút. Đến năm 1934, công ty Oerlikon Contraves có trụ sở tại Thụy Sĩ (Oerlikon là tên thị trấn cùng tên mà nhà máy đặt trụ sở, hiện được gọi là Rheinmetall Air Defence AG), đã hồi sinh thiết kế của Becker và tăng kích thước để có thể tấn công hiệu quả hơn các máy bay chiến đấu một tầng cánh hiện đại của những năm 1930.

Việc sản xuất bắt đầu vào năm 1937. Kíp chiến đấu là bốn người; chiều dài nòng súng 1.400 mm; trọng lượng xe chở súng 68,04 kg; trọng lượng đạn 123 gram. Tốc độ đầu nòng 820 mét/giây; tầm bay tối đa (lý thuyết) 4.389 mét; tầm bắn hiệu quả tối đa (thực tế) 1.500 mét. Tốc độ bắn 4,80 vòng/phút (chu kỳ/lý thuyết); 320 vòng/phút (thực tế).
Hải quân Mỹ đã đưa loại súng này vào sử dụng từ tháng 11/1940. Nhiều quốc gia đã có được bản quyền sản xuất, do đó vũ khí này được cả quân Đồng minh và phe Trục sử dụng trong chiến tranh Thế chiến 2.
Lịch sử hoạt động
Bofors và Oerlikon đã chứng tỏ là một cặp đôi tuyệt vời cho hầu như toàn bộ các tàu hải quân Đồng minh trong Thế chiến 2, chúng được bố trí trên hầu hết các tàu chiến của Đồng minh, từ tàu khu trục hộ tống nhỏ xíu và tàu ngầm mảnh khảnh cho đến các thiết giáp hạm và tàu sân bay lớn.
Ví dụ, tàu ngầm lớp Gato của Hải quân Mỹ được trang bị một khẩu Bofors và Oerlikon trên mỗi chiếc, đối với tàu khu trục hộ tống như USS Samuel B. Roberts (DE-413) được trang bị hai khẩu Bofors lắp trên bệ đôi và mười khẩu Oerlikon lắp trên bệ đơn. Các tàu sân bay lớp Essex được trang bị từ 32 đến 72 khẩu Bofors 40mm và 55 đến 76 khẩu Oerliko. Còn các thiết giáp hạm lớp Iowa được trang bị không dưới 80 khẩu súng 40mm và 50 khẩu súng 20mm.

Tất nhiên, Bofors không chỉ được lắp trên tàu chiến mà còn trên nhiều loại bệ vũ khí trên mặt đất, cả bệ pháo cố định và di động như xe tăng, xe tải,…
Vậy, súng Bofors 40mm hiệu quả đến mức nào? Theo chuyên gia Jesse Beckett của tạp chí War History, “Người Anh rất coi trọng khẩu súng này và đã sản xuất nó trong suốt Thế chiến 2. Trên thực tế, các nhà máy của Khối thịnh vượng chung đã sản xuất hơn 19.000 khẩu súng Bofors 40 mm… Trong ngày đầu của Chiến dịch đổ bộ bờ biển Normandy, súng Bofors đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các khu vực mới chiếm được. Bofors cũng giữ danh hiệu là vũ khí phòng không mặt đất đầu tiên bắn hạ máy bay phản lực, đó là một chiếc Me 262 của Đức“.
Đối với Oerlikon, thành tích tiêu diệt mục tiêu của nó cũng không kém cạnh Bofors; Daniel Garas thuộc Bộ Tư lệnh Di sản và Lịch sử Hải quân Mỹ đã trích dẫn một bản tóm tắt được công bố vào ngày 8/10/1945, trong đó ghi nhận khẩu pháo 20mm này đã bắn hạ 617 máy bay đối phương trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến năm 1945.
Ngày nay, Bofors 40mm vẫn còn được sử dụng nhưng với vai trò bị đảo ngược, tức là được trang bị trên máy bay để chống lại các mục tiêu mặt đất, khẩu súng này được triển khai trên máy bay AC-130 Spectre. Trong khi đó, Oerlikon 20mm vẫn trang bị cho một số đơn vị hải quân, trên danh nghĩa là vũ khí phòng không, nhưng chủ yếu được sử dụng để bắn cảnh cáo hoặc vô hiệu hóa các tàu nhỏ.
Quang Hưng
Đọc bài gốc tại đây.